HieuBio
Hiệu quả kinh tế (Seidel 2003), khả năng ứng dụng (Hoheboken, 1999 và Weigel, 2004) và thương mại hóa (Amann, 1999) của các loại tinh dịch đã được phân tách tinh trùng X hay Y cũng được báo cáo khá nhiều trên thế giới. Các báo cáo gần đây đã trình bày nhiều kết quả sử dụng loại tinh dịch phân tách tinh trùng X và Y này trong ngành chăn nuôi bò (Seidel, 2002-2003; Weigel, 2004; Foote, 1996; Johnson, 1999-2000; Garner, 2001; Hasler và ctv, 1995; Hunter, 2003), cũng như đánh giá việc sử dụng các loại tinh này trong gieo tinh nhân tạo (Cran, 1997; Morrel, 1991; Seidel, 1999; Bodmer và ctv, 2005; Schenk, 2005) hoặc sản xuất phôi bò in vitro (Cran, 1993-1995; Lu và ctv, 1999; Zhang và ctv, 2003; Lu và Seidel, 2004; Fischer và ctv, 2005; Wilson và ctv, 2005). Sử dụng tinh dịch đã phân tách tinh trùng có nhược điểm là tỷ lệ thụ thai thấp hơn (Seidel, 1999). Tuy nhiên, khi nâng số lượng tinh trùng (đã phân tách X và Y) trong 1 liều tinh dịch ngang bằng với loại tinh không phân tách thì tỷ lệ thụ thai đã được cải thiện đáng kể (khoảng 60-80% so với sử dụng tinh dịch không phân tách) (Seidel, 1999; Doyle và ctv, 1999). Nhược điểm này là do khả năng sống của tinh trùng đã phân tách bị giảm thấp sau khi bảo quản lạnh (Schenk, 1999).
Ở Việt Nam, việc sử dụng tinh bò đã phân tách sẵn có trên thị trường để phục vụ công tác gieo tinh nhân tạo đã được tiến hành trong vài năm gần đây và đạt được những tiến bộ đáng kể. Cụ thể, Với hơn 4 nghìn liều tinh bò sữa cao sản đã phân tách (giới tính) được nhập về, Cty CP Giống bò sữa Mộc Châu đã áp dụng thành công công nghệ nhân giống này, cho tỷ lệ bê cái sinh ra đạt khoảng gần 90% (Báo Nông Nghiệp VN). Trong khi đó, Công ty cổ phần Sữa Đà Lạt đã thực hiện thành công việc sử dụng tinh bò sữa phân biệt giới tính để tăng nhanh tổng đàn và cải tạo chất lượng đàn bò sữa của đơn vị, và hiện đang tiến hành triển khai kỹ thuật này cho nông dân, Công ty cổ phần Sữa Đà Lạt thực hiện thụ tinh nhân tạo cho đàn bò sữa của đơn vị thì 19/21 bê con sinh được đã là bê cái (đạt tỷ lệ bê cái trên 93%). Hiệu quả kinh tế của kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho bò sữa bằng tinh phân biệt giới tính so với sử dụng tinh không phân biệt giới tính lâu nay đang thực hiện tại địa phương (với số liều tinh như nhau và trong cùng thời gian), là: Tổng đàn bò sữa sẽ tăng nhanh gấp 2 lần, chất lượng con giống tốt và có tính di truyền cao, giá nhập khẩu tinh phân biệt giới tính cao hơn giá tinh không phân biệt giới tính 15 USD/ liều, nhưng giá trị bê cái được sinh ra từ tinh phân biệt giới tính cao gấp nhiều lần (hiện tại giá bê sữa cái ở Đơn Dương có giá 9-10 triệu đồng/ con, trong khi giá bê sữa đực chỉ ở mức 1 triệu đồng/ con). Từ kết quả đã được khẳng định ở Công ty cổ phần Sữa Đà Lạt, dự án “ Sử dụng tinh bò sữa phân biệt giới tính để cải tạo chất lượng giống và tăng nhanh đàn bò sữa tại tỉnh Lâm Đồng” đã được UBND tỉnh chấp thuận và giao cho Công ty cổ phần Sữa Đà Lạt triển khai tại các hộ và trang trại có nhiều bê tơ hậu bị, đàn bò cái đạt tỷ lệ đậu thai cao ở các huyện Đức Trọng, Đơn Dương. Với nguồn vốn đầu tư 880 triệu đồng từ ngân sách địa phương, 1.000 liều tinh phân biệt giới tính sẽ được thụ tinh nhân tạo cho 500 bò sữa mẹ để cho ra đời 450 bê cái chất lượng cao (Báo Lâm Đồng online, ngày 03/05/2011) . Ngoài ra, tinh bò đã phân tách cũng được sử dụng thành công trong gieo tinh nhân tạo trên bò ở nhiều trại khác như trại bò Tuyên Quang, Trại bò ở Nông trường Sông Hậu… Tất cả những kết quả này cho thấy, việc sử dụng tinh đã phân tách (hay còn gọi là tinh phân biệt giới tính) để phục vụ công tác gieo tinh nhân tạo cho bò đã thàng công và đang được các địa phương phổ biến rộng hơn. Liệu với những thành công trong thực tiễn sản xuất đó, hướng ứng dụng tinh đã phân tách chỉ để phục vụ công tác gieo tinh nhân tạo bò còn cần thiết để nghiên cứu hay không?









Không có nhận xét nào: